Trong tháng 2 vừa qua, Khoa Kinh tế và Quản lý, Trường Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã tổ chức thành công buổi tọa đàm khoa học với các chủ đề. Diễn giả là TS. Nguyễn Trà My, TS Phạm Thanh Sơn và TS. Lê Hương Linh – giảng viên của Khoa. Chương trình thu hút sự quan tâm của các giảng viên, sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh của Nhà trường.
TS. Nguyễn Trà My trình bày về chủ đề Renewable Energy and Gender Inequality: Evidence from LMICs”.
Ở chủ đề đầu tiên, “Renewable Energy and Gender Inequality: Evidence from LMICs”, TS. Nguyễn Trà My tập trung làm rõ mối quan hệ giữa năng lượng tái tạo và bất bình đẳng giới, bằng chứng thực nghiệm từ các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Hỗ trợ tài chính quốc tế đối với năng lượng tái tạo có tác động đến bất bình đẳng giới. Biến đổi khí hậu ngày nay là vấn đề nghiêm trọng đối với mọi quốc gia, trong đó các quốc gia đang phát triển thường bị ảnh hưởng nặng nề hơn các quốc gia phát triển, và ảnh hưởng đối với nữ giới thường nghiêm trọng hơn nam giới. Dòng tài chính quốc tế hỗ trợ năng lượng tái tạo gia tăng có thể làm giảm tác động của biến đối khí hậu thông qua việc thúc đẩy phát triển và sử dụng công nghệ năng lượng tái tạo, qua đó tăng cường vai trò của các nhóm người trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ. Nghiên cứu tìm hiểu tác động của hỗ trợ tài chính quốc tế đến năng lượng tái tạo và bất bình đẳng giới ở các nước thu nhập thấp, và các chơ chế ảnh hưởng đến bất bình đẳng giới. Nghiên cứu sử dụng mô hình tác động cố định trên dữ liệu 18 năm từ 91 quốc gia để xem xét tác động của hỗ trợ tài chính quốc tế đối với năng lượng tái tạo và bất bình đẳng giới. Nghiên cứu cho thấy hỗ trợ tài chính quốc tế đối với năng lượng tái tạo tác động tiêu cực đến chỉ số bất bình đẳng. Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ tác động lớn hơn đối với các quốc gia thu nhập thấp và trung bình thấp. Dựa trên kết quả thực nghiệm, nghiên cứu đưa ra một số gợi ý chính sách, như các quốc gia cần đảm bảo các sáng kiến tài chính khí hậu được tích hợp với các vấn đề giới, đầu tư năng lượng tái tạo nên được tích hợp với sự phát triển cơ sở hạ tầng.
TS. Phạm Thanh Sơn tập trung tìm hiểu chỉ thị tài khóa trong mô hình DSGE.
Trong chủ đề 2, “Fiscal Mandate in a DSGE model”, TS. Phạm Thanh Sơn tập trung tìm hiểu chỉ thị tài khóa trong mô hình DSGE (mô hình cân bằng động ngẫu nhiên tổng quát). Nghiên cứu thực hiện để trả lời cho câu hỏi tỷ lệ hợp lý của việc củng cố tài khóa cùng với chính sách tiền tệ, khi tỷ lệ nợ so với thu nhập ban đầu cao, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm tình trạng nền kinh tế, mục tiêu của chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như điều kiện kinh tế cụ thể của từng quốc gia. Nghiên cứu xây dựng và thiết kế một mệnh lệnh tài khóa, bao gồm một mệnh lệnh tài khóa ủy quyền tối ưu cho cơ quan tài khóa, mức nợ/sản lượng mục tiêu tối ưu, tốc độ củng cố tài khóa tối ưu, và kết hợp các quy tắc tối ưu cho các công cụ tài khóa. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của kinh tế Hoa Kỳ để kiểm định cho mô hình nghiên cứu.
TS. Lê Hương Linh trình bày chủ đề “Corporate Social Responsibility Practices Toward Promoting Environmental Sustainability: Case Studies in Vietnam”.
Ở chủ đề 3, “Corporate Social Responsibility Practices Toward Promoting Environmental Sustainability: Case Studies in Vietnam”, việc giải quyết những thách thức môi trường thông qua các nỗ lực hợp tác và bền vững là vô cùng quan trọng. Việc thúc đẩy sự bền vững môi trường mang lại nhiều lợi ích đáng kể, đòi hỏi các biện pháp quyết đoán và chung tay từ mọi cấp độ. Nghiên cứu khám phá trách nhiệm xã hội cho phát triển bền vững ở Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ sáng kiến trách nhiệm xã hội của Công ty Vinamilk, và Sáng kiến trách nhiệm xã hội đối với sự phát triển bền vững môi trường của Tập đoàn Bảo Việt nhằm khám phá cách Vinamilk và Bảo Việt sử dụng các hoạt động CSR trong vòng năm năm để nâng cao hiệu quả bền vững môi trường. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các thực hành CSR có thể hỗ trợ có ý nghĩa cho hành trình quản lý môi trường của các tổ chức thông qua việc cam kết tham gia của nhiều bên liên quan, xác định các vấn đề ưu tiên, thiết lập mục tiêu, theo dõi có hệ thống, tích hợp chuỗi cung ứng, đổi mới sáng tạo, minh bạch và cải tiến liên tục. Cả hai công ty đã tìm cách giải quyết trách nhiệm môi trường của mình bằng cách tích hợp các hoạt động CSR vào quy trình kinh doanh cốt lõi của họ. Bảo Việt đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc giảm phát thải khí nhà kính nhờ vào giao thức và việc áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp. Vinamilk đã nỗ lực nhiều hơn trong việc quản lý chất thải và bảo tồn nước do là một công ty sản xuất.
Trong thời gian tới, Khoa Kinh tế và Quản lý sẽ tiếp tục triển khai các buổi tọa đàm với nhiều chủ đề đa dạng, nhằm tăng cường sự chia sẻ và kết nối trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học giữa các cán bộ giảng viên, nhà nghiên cứu của Trường Quốc tế.
Đồng Văn Chung
Khoa Kinh tế và Quản lý